Sứ mệnh lịch sử của Đảng ta trong thời kỳ phát triển mới của đất nước được Đại hội XIII xác định: Lãnh đạo khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại...
Sứ mệnh lịch sử của Đảng ta trong thời kỳ phát triển mới của đất nước được Đại hội XIII xác định: Lãnh đạo khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN.
|
Ảnh minh họa. |
Để hoàn thành thắng lợi trọng trách lịch sử này trong những năm tới, Đảng ta phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện là nhiệm vụ then chốt, vì Đảng trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ là vấn đề sống còn, là nhân tố quyết định đến vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn. Xây dựng Đảng về tư tưởng giữ vai trò trọng yếu trong quá trình hoạt động của Đảng. Muốn xác định đúng nhiệm vụ và những giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng xây dựng Đảng về tư tưởng trong thời kỳ mới trước hết cần thống nhất nhận thức quan niệm về Tư tưởng, về xây dựng Đảng về tư tưởng, về công tác tư tưởng.
- Quan niệm về Tư tưởng: Theo từ điển bách khoa Việt Nam: “Tư tưởng, hình thái phản ánh thế giới bên ngoài trong đó bao hàm ý thức về mục đích và triển vọng của việc tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới bên ngoài. Tư tưởng là kết quả của khái quát hóa kinh nghiệm của sự phát triển tri thức trước đó và được dùng làm nguyên tắc để giải thích các hiện tượng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: mọi tư tưởng đều được rút ra từ kinh nghiệm, chúng là sự phản ánh đúng đắn hay phản ánh xuyên tạc hiện thực. Nhưng tư tưởng không chỉ đơn thuần là sự phản ánh thế giới khách quan, trên cơ sở phản ánh thế giới khách quan, tư tưởng xác định con đường để cải tạo thế giới. Vì vậy nội dung của bất kỳ tư tưởng nào cũng bao hàm những mục đích và những nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn. Đó là sự khác nhau căn bản giữa tư tưởng với các hình thức phản ánh khác. Sau khi xuất hiện, tư tưởng có tính độc lập tương đối và ảnh hưởng tích cực trở lại sự phát triển của hiện thực. Những tư tưởng khác nhau có tác dụng với hiện thực theo hướng khác nhau. Tư tưởng phản động phản ánh xuyên tạc hiện thực sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội, còn tư tưởng tiên tiến phản ánh đúng đắn hiện thực và thể hiện lợi ích của các giai cấp cách mạng thì thúc đẩy sự phát triển của xã hội theo hướng tiến bộ. Tuy nhiên, Tư tưởng xưa nay không thể đưa người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ, nhiều lắm chúng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt qua ngoài phạm vi tư tưởng của trật tự thế giới cũ mà thôi. Tư tưởng nói chung không thể thực hiện được gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng cần có những con người sử dụng được lực lượng thực tiễn (C.Mác)”[1].
Vận dụng những luận điểm trên đây của Mác, Lênin đã bác bỏ thuyết tự phát, các xu hướng bè phái, vô chính phủ trong phong trào công nhân. Theo người, Đảng Macxit phải đưa lý luận của Chủ nghĩa xã hội vào phong trào công nhân và tổ chức công nhân thành đội quân cách mạng. “Trong cuộc đấu tranh để giành chính quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn sự tổ chức, giai cấp vô sản có thể thành một lực lượng vô địch vì một lẽ duy nhất: Sự thống nhất tư tưởng của giai cấp dựa trên cơ sở của nguyên lý của chủ nghĩa Mác, được củng cố bằng sự thống nhất vật chất của tổ chức, tập hợp hàng triệu lao động thành một đạo quân của giai cấp công nhân (V.Lênin)”[2].
Là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện cả chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong công tác xây dựng Đảng, Người xác định trước hết là xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị. Sau nhiều năm bôn ba tìm con đường cứu dân, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chắc chắn nhất, chân chính nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin. Người cho rằng chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới là “cái cẩm nang thần kỳ” để đưa cách mạng đến thành công. Về tầm quan trọng hàng đầu của lý luận chính trị, Người nhắc lại lời của V.Lênin trong tác phẩm làm gì: “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng, chỉ có Đảng nào có lý luận tiên phong mới làm nổi vai trò cách mạng tiên phong. Và trong tác phẩm Đường Kách mệnh Người khẳng định: Đảng muốn mạnh phải có chủ nghĩa làm cốt ví như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng về tư tưởng chính trị là quan trọng nhất. Xây dựng Đảng về tư tưởng trước hết là xác lập thế giới quan và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân – giai cấp tiên tiến nhất của thời đại, giai cấp đứng ở trung tâm của lịch sử thông qua Đảng của mình để lãnh đạo toàn thể dân tộc thực hiện mục tiêu cao đẹp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định, cái quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng không chỉ ở số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân mà cơ bản là ở nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, ở cương lĩnh, đường lối của Đảng thực sự vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, đồng thời là học thuyết về sự phát triển xã hội, là vũ khí tư tưởng để đảng viên làm tròn vai trò tiên phong, vai trò lãnh đạo cách mạng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng vững mạnh về tư tưởng chính trị thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải coi trọng công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Theo Người giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng hàng đầu của Đảng, “Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận vì không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị” thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng”[3]. Người yêu cầu: “Phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, trước hết trong những cán bộ cốt cán của Đảng”.[4]
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng Đảng về tư tưởng không chỉ làm cho lý luận Mác-Lênin, thế giới quan và phương pháp luận Mác-Lênin thấm nhuần trong toàn Đảng và giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội mà còn làm cho toàn Đảng và mỗi đảng viên của Đảng không ngừng nâng cao ý chí phấn đấu, xây dựng niềm tin vững chắc vào con đường cách mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng. Trong quá trình học tập lý luận chính trị, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên học tập chủ nghĩa Mác-Lênin không những để thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin mà phải biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Phải nắm vững phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phải căn cứ vào thực tiễn để xác định đúng quan điểm, đường lối chính sách pháp luật vận dụng sáng tạo, không máy móc, giáo điều, dập khuôn, bảo thủ.
Theo người, xây dựng Đảng về tư tưởng đòi hỏi mỗi đảng viên của Đảng phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, trau dồi tư tưởng chính trị, đạo đức cho bản thân, nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình và tự mình nêu gương “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tế. Mỗi đảng viên phải không ngừng học tập văn hóa, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu của công tác cách mạng. Xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng là làm cho toàn Đảng là một ý chí, đoàn kết thống nhất cùng toàn dân đồng lòng thực hiện thắng lợi cương lĩnh, đường lối chính sách của Đảng. Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức là trọng trách của công tác tư tưởng.
Vì vậy chúng ta cần thống nhất quan niệm về công tác tư tưởng: Con người có nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Để thỏa mãn nhu cầu vật chất, con người tổ chức các quá trình sản xuất vật chất. Để thỏa mãn nhu cầu tinh thần, con người cũng có quá trình sản xuất ra sản phẩm tinh thần. Khi xã hội loài người phân chia thành các giai cấp, giữa các giai cấp đối kháng nhau về lợi ích căn bản cũng nảy sinh ra nhu cầu sản xuất ra Hệ tư tưởng để phản ánh, luận chứng cho địa vị và bảo vệ lợi ích giai cấp, chống lại giai cấp đối kháng. Do đó lịch sử đã bắt đầu quá trình đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ. Từ đó sinh ra nhu cầu sản xuất và truyền bá hệ tư tưởng. Quá trình sản xuất và truyền bá hệ tư tưởng làm xuất hiện các quan hệ tư tưởng (là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và truyền bá hệ tư tưởng) và các quá trình tư tưởng tức là quá trình sản xuất hệ tư tưởng (hình thành và phát triển hệ thống quan điểm lý luận), quá trình tái sản xuất hệ tư tưởng (là quá trình truyền bá hệ tư tưởng), quá trình biến hệ tư tưởng thành sức mạnh vật chất, thành hành động của con người:
- “Vật chất hóa” hệ tư tưởng, quá trình tư tưởng còn bao gồm cả quá trình bảo quản, lưu giữ…các giá trị tư tưởng.
Hệ tư tưởng là sự phản ánh lợi ích giai cấp dưới hình thức lý luận cho nên nó mang bản chất giai cấp. Do đó các quan hệ tư tưởng và các quá trình tư tưởng cũng bị chi phối bởi lợi ích giai cấp. Trong lịch sử loài người, những giai cấp có hệ tư tưởng thông qua đội ngũ các nhà tư tưởng và hệ thống các thiết chế tư tưởng luôn tìm cách tác động chi phối các quan hệ tư tưởng và các quá trình tư tưởng nhằm biến hệ tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần xã hội; cổ vũ, động viên mọi thành viên trong xã hội hành động xây dựng và bảo vệ chế độ. Do đó, sự tác động của chủ thể hệ tư tưởng đến các quan hệ tư tưởng và các quá trình tư tưởng để đạt mục đích của chủ thể hệ tư tưởng là công tác tư tưởng.
Trong lịch sử nhân loại khi xuất hiện giai cấp đối kháng thì cũng diễn ra các cuộc đấu tranh giai cấp. Nhưng không phải bất kỳ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng xuất hiện Đảng chính trị. Các cuộc đấu tranh giai cấp của nô lệ chống chủ nô, của nông dân chống địa chủ phong kiến chỉ ra đời các lãnh tụ cá nhân kiểu Spartacus, Hoàng Sào, Tây Sơn. Chỉ đến cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản mà kết cục của cuộc đấu tranh này là xóa bỏ giai cấp đối kháng. Do tính chất triệt để của cuộc đấu tranh mà hai giai cấp đối kháng này không chỉ cần có lãnh tụ cá nhân mà đòi hỏi phải có Bộ tham mưu chính trị, lãnh tụ chính trị tập thể của giai cấp tức Đảng chính trị.
Do đó, công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính Đảng nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
Đối với Đảng ta, công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành rất quan trọng toàn bộ hoạt động cách mạng của mình; Công tác tư tưởng cùng với công tác tổ chức trực tiếp góp phần xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Tiến hành công tác tư tưởng nhằm vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng cơ sở khoa học, thực tiễn để hình thành cương lĩnh, đường lối, chính sách trong từng thời kỳ; Truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, Đường lối chính sách của Đảng cho cán bộ đảng viên và nhân dân nhằm đem lại cho họ sự giác ngộ về thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, biến nó thành niềm tin, lý tưởng, lẽ sống, thành nguyên tắc đạo đức, tình cảm cách mạng, cổ vũ, động viên tính tích cực, tự giác, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Công tác tư tưởng góp phần quan trọng vào việc hình thành thượng tầng kiến trúc mới về mặt hình thái ý thức, góp phần quan trọng xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và nhiệm vụ giáo dục, bồi dưỡng xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Công tác tư tưởng là một quá trình liên tục gồm 3 quá trình: quá trình sáng tạo, phát triển vận dụng hệ tư tưởng hình thành cương lĩnh, đường lối, chính sách; quá trình truyền bá cương lĩnh đường lối chính sách, quá trình hiện thực hóa cương lĩnh đường lối chính sách, pháp luật.
Lịch sử hơn 90 năm lãnh đạo công tác tư tưởng Đảng ta đã tổng kết rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu, nhất là những nguyên tắc công tác tư tưởng. Đó là những điều cơ bản được định ra khi tiến hành công tác tư tưởng nhất quyết phải tuân theo đó là những nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tính Đảng, là nguyên tắc cơ bản nhất của công tác tư tưởng, xuất phát từ bản chất giai cấp của Hệ tư tưởng. Tính Đảng là biểu hiện tập trung của tính giai cấp, có nghĩa tính Đảng là tính giai cấp ở trình độ triệt để nhất, sâu sắc nhất, tự giác nhất. Chính do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng mà phát triển tính giai cấp thành tính Đảng. Tính Đảng cộng sản của công tác tư tưởng được thể hiện trên những nét chủ yếu sau:
- Khi tiến hành các hoạt động tư tưởng, cán bộ tư tưởng phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, luôn xuất phát từ thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ quan điểm đường lối của Đảng. Tuân theo nguyên tắc tính Đảng có nghĩa quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối chính sách của Đảng, coi đó là cơ sở khoa học, là mục đích là nội dung cốt lõi của công tác tư tưởng.
- Tính Đảng còn thể hiện nổi bật khi tiến hành công tác tư tưởng phải bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ cương lĩnh, đường lối; Bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với mọi tư tưởng thù địch, phản bác mọi quan điểm tư tưởng sai trái.
- Tính Đảng còn đòi hỏi công tác tư tưởng phải trở thành bộ phận khăng khít trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng do đó Đảng phải lãnh đạo chặt chẽ các tổ chức làm công tác tư tưởng cũng như lãnh đạo chặt chẽ các quá trình tư tưởng từ quá trình sáng tạo, phát triển (công tác lý luận), quá trình truyền bá (công tác tuyên truyền) đến quá trình hiện thực hóa hệ tư tưởng (cổ động thực hiện các chương trình hành động cách mạng, các phong trào thi đua yêu nước).
- Tính Đảng còn thể hiện khi tiến hành công tác tư tưởng phải đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng Mác-xít, đấu tranh khắc phục những biểu hiện duy tâm, duy ý chí, chủ quan trong công tác tư tưởng. Nguyên tắc tính khoa học có cơ sở từ bản chất cách mạng và khoa học của hệ tư tưởng Mác-Lênin cương lĩnh, đường lối của Đảng ta. Chủ nghĩa Mác-Lênin là một học thuyết cách mạng và khoa học. Hoạt động tư tưởng, hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu vào cán bộ, đảng viên và quần chúng trở thành vũ khí tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng để cải tạo thực tiễn phải mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc.
Công tác tư tưởng mang tính khoa học trước hết phải tuân thủ những quy luật vận động biến đổi của tư tưởng, tâm lý của con người, của xã hội. Phải biết dựa vào thành tựu của các khoa học khác, chủ yếu là khoa học xã hội và nhân văn để từng bước nâng cao trình độ khoa học của hoạt động tư tưởng.
Tính khoa học đòi hỏi khi tiến hành công tác tư tưởng phải quán triệt thế giới quan, phương pháp luận Mác-xít trước hết là quan điểm lịch sử cụ thể đối với các sự kiện, hiện tượng, các quá trình diễn ra trong đời sống xã hội. Phải phân tích sâu sắc quá trình này một cách toàn diện trong sự vận động và biến đổi, trong mối liên hệ với nhau, trong không gian và thời gian cụ thể.
Tuân thủ nguyên tắc tính khoa học, đòi hỏi khi xác định nội dung, lựa chọn phương pháp, hình thức, phương tiện, chủ thể công tác tư tưởng phải tính đến không chỉ tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước và thế giới mà còn phải tính đến đặc điểm dân tộc, địa phương, trạng thái ý thức xã hội, thực trạng tâm lý, tư tưởng, tình cảm…của từng nhóm xã hội, từng con người cụ thể. Tính khoa học đòi hỏi phải thường xuyên đổi mới, sáng tạo những nội dung mới, những hình thức và phương pháp mới để phù hợp với sự vận động và phát triển của đối tượng công tác tư tưởng và biết vận dụng những thành tựu khoa học, công nghệ và kịp thời sử dụng những phương tiện hiện đại vào công tác tư tưởng.
Tính khoa học của công tác tư tưởng được hiện thực nổi bật ở tính chân thật. Tính chân thật đảm bảo sức mạnh cho công tác tư tưởng. Cho nên tính chân thật là sự tiêu chuẩn quan trọng của công tác tư tưởng. Do xác định quan điểm tư tưởng cách mạng và khoa học khi xem xét đánh giá tình hình, với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật. Đại hội VI của Đảng đã đi tới quyết định lịch sử xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong thời điểm có tính bước ngoặt – Đổi mới hay khủng hoảng, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
Tính khoa học trung thực của công tác tư tưởng phải thấu triệt thế giới quan khoa học Mác-Lênin, khi đánh giá tình hình phải kiên quyết khắc phục bệnh chủ quan, khuynh hướng tô hồng hoặc bôi đen, cách đánh giá phiến diện, một chiều, chạy theo thành tích đồng thời phải đấu tranh không khoan nhượng với những luận điệu xuyên tạc vu khống, bôi nhọ lịch sử, hạ thấp phủ định thành quả cách mạng của dân tộc. Công tác tư tưởng không chỉ là khoa học mà còn là nghệ thuật. Do đó nghệ thuật nói, nghệ thuật viết với phương pháp, phương thức truyền bá tư tưởng, tình cảm giàu tính sáng tạo đem lại hiệu quả cao.
- Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn. Chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời là kết quả tổng kết thực tiễn, phát hiện những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Sau khi ra đời, Học thuyết Mác-Lênin đem lại cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động một công cụ khoa học để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới bằng cách mạng. Do đó, chủ nghĩa Mác-Lênin-Lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thống nhất biện chứng với nhau: Lý luận xuất phát từ thực tiễn và trở lại phục vụ nhiệm vụ thực tiễn, soi đường cho thực tiễn cách mạng. Còn thực tiễn là cơ sở của lý luận, là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm tính đúng đắn của lý luận. Nguyên tắc công tác tư tưởng gắn với thực tiễn cuộc sống thể hiện trước hết phải bám sát vào thực tiễn cách mạng, thực tiễn đấu tranh của quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phải luôn nắm được tư tưởng, tâm trạng của các tầng lớp xã hội trước mỗi sự kiện, mỗi chủ trương chính sách trước mỗi nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
Nói một cách khác: mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp công tác tư tưởng phải xuất phát yêu cầu của cuộc sống. Nói công tác tư tưởng phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, phải gắn chặt với nhiệm vụ chính trị có nghĩa là phải gắn chặt với cuộc sống. Công tác tư tưởng không chỉ gắn chặt với nhiệm vụ chính trị có nghĩa là phải gắn chặt với cuộc sống.
Nguyên tắc công tác tư tưởng gắn chặt với cuộc sống, yêu cầu chủ thể công tác tư tưởng phải bám sát thực tiễn, có mặt ở mũi nhọn, ở điểm nóng của cuộc sống để kịp thời giải đáp những vấn đề do thực tiễn đặt ra nhằm góp phần thúc đẩy xã hội tiến lên.
Chỉ có gắn chặt với thực tiễn mới kịp thời phát hiện được những nhân tố mới, những kinh nghiệm hay để tổng kết, nhân rộng. Phát hiện kịp thời những yếu kém khuyết điểm sai lầm để khắc phục và nhất là kịp thời bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách. Chỉ gắn với thực tiễn, công tác tư tưởng mới khắc phục được căn bệnh giáo điều lý thuyết suông nhất là tệ chạy theo thành tích, báo cáo không trung thực. Tổng kết thực tiễn là phương pháp căn bản thực hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công tác tư tưởng, khắc phục chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm.
- Nguyên tắc toàn Đảng làm công tác tư tưởng trước hết là Bí thư, cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan đơn vị.
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính Đảng. Công tác tư tưởng là bộ phận cấu thành rất quan trọng trong hoạt động cách mạng của Đảng cộng sản. Đảng ta là chủ thể của công tác tư tưởng. Từ vị trí, vai trò, từ nội hàm của công tác tư tưởng với 3 quá trình: Sản xuất, phát triển, vận dụng sáng tạo Hệ tư tưởng hình thành cương lĩnh, đường lối chính sách, quá trình truyền bá Hệ tư tưởng, cương lĩnh đường lối chính sách, quá trình hiện thực hóa cương lĩnh, đường lối chính sách đã xác lập nguyên tắc toàn Đảng làm công tác tư tưởng. Theo nguyên tắc toàn Đảng làm công tác tư tưởng đã chỉ rõ: Bí thư, cấp ủy là người lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng. Ban Tuyên giáo là cơ quan tham mưu của các cấp ủy trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức; về chủ trương quan điểm và chính sách của Đảng trong các lĩnh vực lý luận chính trị, tuyên truyền, lịch sử Đảng, Báo chí xuất bản, văn hóa văn nghệ, thông tin đối ngoại, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, dạy nghề, y tế; thể dục thể thao, dân số gia đình trẻ em; đồng thời là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tuyên giáo. Đội ngũ cán bộ tư tưởng chuyên trách hoạt động tại ban tuyên giáo các cấp, tại các cơ quan nghiên cứu lý luận chính trị, hệ thống các trường chính trị, hệ thống báo chí xuất bản, văn hóa, văn nghệ…là các chiến sỹ xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hóa. Mọi đảng viên phải trực tiếp tham gia các quá trình tư tưởng của tổ chức Đảng nơi mình sinh hoạt. Toàn thể đảng viên phải trực tiếp làm công tác tư tưởng với quần chúng, mỗi đảng viên phải giáo dục, tu dưỡng, rèn luyện tư tưởng đạo đức bản thân, làm gương cho quần chúng noi theo.
Tại Đại hội XIII đã thông qua báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII và phương hướng nhiệm vụ giải pháp nhiệm kỳ Đại hội XIII.
Về nhiệm vụ giải pháp xây dựng Đảng về tư tưởng, báo cáo tổng kết xác định: Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng: - Công tác tư tưởng phải kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, làm cho tư tưởng tiến bộ tích cực thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, cải tạo những tư tưởng lạc hậu; đẩy lùi những sai trái. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung phương thức công tác tư tưởng bảo đảm tính Đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn, kịp thời, hiệu quả; Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng; Tuyên truyền sâu rộng đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, hành động trong Đảng và nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ đảng viên. Đổi mới và triển khai đồng bộ việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với đấu tranh ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí, lối sống cơ hội, thực dụng bè phái, nói không đi đôi với làm trong cán bộ, đảng viên.
- Dự báo sát, chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng kịp thời xử lý thông tin, định hướng dư luận xã hội bảo đảm sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái thù địch, chủ động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu độc trên internet, mạng xã hội. Tăng cường quản lý và định hướng hoạt động của các cơ quan báo chí; Tập trung đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, phóng viên, biên tập viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong sáng và tinh thông nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với các cơ quan báo chí, phóng viên đăng tải thông tin chưa được xác minh, kiểm chứng, không có cơ sở, căn cứ, gây ảnh hưởng không tốt đến dư luận xã hội, phát huy hơn nữa vai trò của văn học, nghệ thuật trên mặt trận tư tưởng; Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ phục vụ công tác tuyên truyền bảo đảm an ninh tư tưởng trên môi trường không gian mạng.
- Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn nghiên cứu lý luận cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tổng kết thực tiễn 40 năm đổi mới để bổ sung phát triển lý luận của Đảng. Tiếp tục bổ sung phát triển hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Củng cố các cơ quan nghiên cứu lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu các vấn đề lý luận khó, phức tạp phát sinh từ thực tiễn hoặc tồn tại trong thời gian dài; Những vấn đề chưa rõ về cơ sở lý luận còn có nhiều ý kiến khác nhau, mạnh dạn cho thí điểm, tổng kết kịp thời để có kết luận nhằm thống nhất về mặt nhận thức, tạo cơ chế, môi trường thuận lợi và bố trí nguồn lực cần thiết cho nghiên cứu lý luận. Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận, đầu tư xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, có cơ chế chính sách thu hút, sử dụng đãi ngộ các chuyên gia đầu ngành. Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng. Kết hợp chặt chẽ hiệu quả giữa học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị; Khắc phục tình trạng ngại học, lười học tập lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên. Tập trung xây dựng củng cố thường xuyên bồi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực của đội ngũ giảng viên chính trị, báo cáo viên; Kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các trường chính trị.
Xác định hệ thống các nhiệm vụ giải pháp xây dựng Đảng về tư tưởng trên đây là đúng đắn, đáp ứng được mục tiêu yêu cầu xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng trong giai đoạn tới.
Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy còn một số hạn chế trong phương hướng và trong hệ thống 4 nhiệm vụ giải pháp xây dựng Đảng về tư tưởng là chưa xác định rõ mục tiêu, nội dung xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng. Theo chúng tôi cần xác định rõ nội hàm xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng là: - Theo Hồ Chí Minh, Đảng vững mạnh về tư tưởng chính trị thì Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đại hội VII của Đảng đã xác định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho cách mạng do đó nội hàm xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng trong thời kỳ mới là: Làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thế giới quan, phương pháp luận Mác-Lênin, Hồ Chí Minh thấm nhuần trong toàn Đảng và giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Toàn Đảng cũng như mọi cán bộ, đảng viên không những thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn biết vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để xác định đường lối chủ trương, chính sách.
- Xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng là làm cho toàn Đảng là một ý chí, đoàn kết thống nhất cùng toàn dân đồng lòng thực hiện thắng lợi cương lĩnh, Đường lối của Đảng.
- Xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng là giáo dục hướng dẫn mọi đảng viên của Đảng phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện, trau dồi tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống cho bản thân, nghiêm túc, tự giác thực hiện tự phê bình và phê bình và tự mình nêu gương trước quần chúng.
Trong hệ thống 4 nhiệm vụ giải pháp xây dựng Đảng về tư tưởng phần giải pháp còn quá định tính, cần định lượng từng biện pháp, xác định rõ tổ chức, cơ quan nào phải thực hiện, thời hạn hoàn thành. Xây dựng Đảng mạnh về tư tưởng thì phải có giải pháp đột phá củng cố kiện toàn nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tham mưu công tác tư tưởng của các cấp từ Trung ương đến cơ sở và nhất là có giải pháp khả thi để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham mưu cho công tác tư tưởng; và một giải pháp tổng thể quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ tư tưởng trên các lĩnh vực của công tác tư tưởng như cán bộ lý luận, giảng viên lý luận, báo cáo viên, phóng viên báo chí, văn nghệ sỹ.
Xin đề nghị Ban Bí thư ra quyết định các cấp ủy thực hiện giao ban tư tưởng định kỳ và đột xuất để nắm tư tưởng, phối hợp chỉ đạo các binh chủng tư tưởng tiến hành các hoạt động tư tưởng phục vụ các nhiệm vụ chính trị và nhất là chỉ đạo xử lý các tình huống tư tưởng, các điểm nóng tư tưởng… Ban Bí thư cần ra quy định định kỳ các đồng chí thường trực cấp ủy các cấp xuống cơ sở nắm tư tưởng đối thoại với nhân dân.
Trong phương thức đổi mới nội dung, phương thức nâng cao chất lượng công tác tư tưởng cần bổ sung một nguyên tắc: Toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trước hết là Bí thư cấp ủy, người đứng đầu các cơ quan đơn vị.
[1] Từ điển Bách khoa Việt Nam. NXB Từ điển Bách Khoa. Hà Nội 2003. Tập 4. Trang 704
[2] Sách đã dẫn. Tập 4. Trang 705
[3] Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình cao cấp lý luận chính trị xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà xuất bản lý luận chính trị. Hà Nội 2019.
[4] Hồ Chí Minh toàn tập. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội 2011. Tập 11. Trang 43
PGS.TS Đào Duy Quát
Nguyên Phó trưởng Ban Thường trực Ban Tư tưởng – Văn hóa TW
Theo ĐCS